Thuật biến tạo cái tinh của trời đất là Quyền : “ Muôn sinh mạnh ở cái riêng, tính hấp lực và chi tồn cũng ở tại cái riêng – Muôn vật hoá tồn cũng chính nhờ cái riêng “ . Từ cái ý ấy mà người xưa “ bắt nhại “ cái mạnh của thú vật coi nó như thầy của mình
Cái mềm dai của giống dây rừng ; cái sắc bén của cật tre nứa ; cái xù cứng gân guốc của cội mai ; cái nhanh khéo của giống khỉ, vượn ; cái quằn quại trói riết của rắn, trăn ; cái dai dẳng lầm lỳ của gấu ; cái hùng dũng vũ bão của hổ, voi ; nét uyển chuyển mềm mại của báo, mèo ; tính bất ổn của mây, gió ; nguyên bất di , bất thiên của núi...
Tất cả là đồng hưởng muôn tạng, hoà hợp với khí âm dương - tạo ra trời đất rồi hướng tâm trụ vào con người
Khi lý giải về Quyền, các võ sư thường nói: “ Trời đất có tất cả, bắt nhại theo tâm ý của mình, xếp thành khuôn thước, có trước có sau...” Nói như vậy, tưởng là bao la trừu tượng nhưng ngẫm cho cùng quả không có gì là quá. Tự tôi ngay từ hồi còn nhỏ , cũng đã thấy: Quyền là chuỗi những thể thức liên tục, nối vào nhau , giằng với nhau, hàm chứa một thuật luyện công nhất định.
Chính vì vậy, mà có thuật luyện quyền DƯỠNG CÔNG ( ngày nay gọi là QUYỀN DƯỠNG SINH , võ y ) ; có thuật luyện quyền NHẠI CÔNG ; có thuật luyện quyền NGOẠI CÔNG ; có thuật luyện quyền GIAO PHÁP ; có thuật luyện quyền Y GIÁC ... và ngoài ra còn có quyền BINH KHÍ , quyền ĐẶC MÔN.
NHẠI CÔNG là thuật luyện quyền công phu của người học võ. Gần như môn phái nào, gia phái nào nếu còn giữa được nét nguyên gốc , bảo tồn được phương pháp tập cổ, đều lấy tinh thần “ NHẠI “ làm căn gốc cho thuật luyện các môn công : “ long, hổ, quy , xà “ của Thiếu lâm ; hay “ biến dịch ngũ hình “ của Vịnh xuân ; hay nền tảng tư tưởng “ lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái ”... của Nho giáo. Và tư tưởng “ Vô vi “ của Lão Trang xem thế giới muôn tạng đều đồng dạng ăn sâu vào tiềm thức tâm luyện của Võ đang ... Hoặc “ Hổ quyền “, “ Xà quyền “ , “ Hầu quyền “ , “ Vân vũ quyền “ chỉ là tên của các bài quyền trong bộ NHẠI CÔNG của môn phái Nhất nam, nhưng ngay tự nó đã chứa được một phần tinh thần bắt nhại đó.
Ngày nay khi xem biểu diễn võ, chúng ta vẫn thỉnh thoảng nhận thấy nết mô phỏng : thế vồ ; vả của Hổ ; thế trườn uốn , đớp của rắn, trăn ; thế vờn , múa , chao , bắt của khỉ , vượn ... Xem qua thì đơn giản nhưng là cả một đời người, nhiều thế hệ nối tiếp của bao đời, quan sát, ngẫm suy để trường tồn, biến cái “ tinh “ của muôn loài thành cái “ riêng “ của mình và đấy là lòng yêu mình, yêu người , là hạt nhân tinh thần của tình người, là một bộ phận của văn hoá thể chất – “ Phỏng sinh học “ có chọn lọc, tiếp nhận tự nhiên, nhưng có được hiệu quả cao nhất, rèn luyện bản lĩnh, bảo vệ mình, bảo vệ người, vươn đến sự hoàn thiện về sức mạnh.
Ở phương diện thứ hai, đối với người phương Đông sự bắt nhại này không chỉ dừng ở bề ngoài “ PHỎNG “ mà là sự hoà đồng, xem mình như một thực thể đồng nhất với thiên nhiên, hoà với thiên nhên , biến tiểu vũ trụ thành đại vũ trụ và ngược lại – lúc đầu thì bắt nhại , nhưng khi thành đạt người tu luyện tự xem kết quả như tự chính mình, và đấy là căn gốc để con người luôn vượt trên tất cả, là điệp sứ, là ông chủ hết thảy.
Sự gần gũi con người trong thiên nhiên, phép thưởng ngoạn tu tiên của người phương Đông, sáng thở khí trời chân tiếp đất, ăn rau quả, uống nước suối , nhiễm bệnh thì dùng thuốc của cỏ cây, tự nhiên tự tại chính là bao hàm cái ý ấy.
Ngay yếu tố ma thuật, hoặc thuần tuý mang tính phồn thực có trong thuật luyện công của người tiền sử , thì một phần cũng là lòng tin chân thành của con người vào sức mạnh huyền bí - Mẹ đất, Cha trời tiếp sức sống cho giống nòi ; sự nhập “ Thiền “ mà bề ngoài chứa sự yên tĩnh , chết lặng, tan biến vào cõi hư vô mà ngày nay nhiều người vẫn tưởng là phi lý, mê hoặc thì chính là công phu hiển nhiên của người hành đạo hiểu lẽ của trời đát quy tụ cho chính mình – Đó là khả năng tập trung cao độ, dồn ý chí nghị lực, sức mạnh vào một mục đích có điểm nhọn đâm xuyên suốt.
Tụ khí, tản khí, lưu thông hệ thống kinh lạc, điều tiết nội dịch, cân bằng nội quan là hiệu ứng có thật, ngoài các chức năng mà ta gọi là thần kinh, đối với chúng tôi có nghĩa trên hết đó là “ KHÍ “ . Mà chính đó cũng là nguyên tắc chữa bệnh của người phương Đông, tự giúp cho các bộ máy của cơ thể con người tự phục hồi, vai trò của thầy thuốc là giảm cái này, tăng cái kia để tạo ra sự cân bằng , thúc bách cơ thể vận động , tự thắng mình, thắng bệnh tật, phép “ DIỆU “ và “ LINH “ gần với thủ pháp tự kỷ ám thị trong nhiều trường hợp có sức mạnh siêu nhiên không thể lý giải bằng cơ chế vật lý mà khoa học ngày nay biết rất rõ.
Ở phương diện thứ ba, sự bắt “ NHẠI “ không dùng ở tính nguyên bản – y nguyên, mà được nâng lên trước hết là hệ quả có tính lựa chọn, tính thực dụng.