Mỗi sinh mệnh
đều có một trường, trong
trường ấy là phạm vi thế lực
của sinh mệnh này. Sinh mệnh
nào tiến nhập vào trong trường
này thì phải phục tùng quy luật
của trường ấy; sau khi sinh
mệnh kia tiến nhập vào rồi thì
lại gia tăng năng lượng cho
trường ấy, khuyếch đại phạm vi
của trường ấy.
Từ quan điểm sinh mệnh có
khống chế trường mà nhìn nhận
về những sinh mệnh khống chế
con người như không gian, thời
gian, mệt mỏi, tưởng tượng,
ngủ, thống khổ, lười, phẫn
nộ,v.v. thì chúng tôi thấy rằng
chúng đều có phạm vi của bản
thân; chúng ta không tiến nhập
vào trong đó, thì chúng ta
không chịu sự khống chế của
chúng. Chúng ta không những
khái niệm ấy, thì chúng ta xung
xuất ra khỏi sự ràng buộc của
chúng. Ví dụ như “sợ”; [khi]
chúng ta sợ, thì chúng ta đang
chịu sự khống chế của trường
của “sợ”, thì phải chiểu theo
những sự việc mà quy luật của
nó ta bài cho chúng ta. Đồng
thời với cái sợ của chúng ta,
chúng ta cũng bồi bổ cho nó, bổ
xung cho lực lượng của nó, tăng
thêm phạm vi và cường độ cho
trường của nó. Khi mà trong
tâm chúng ta không có khái
niệm “sợ”, thì chúng ta ở ngoài
sự khống chế của loại sinh mệnh
“sợ” này.
Lấy thêm một ví dụ nữa, chẳng
hạn “phẫn nộ”; nó khởi tác dụng
là vì trong tư tưởng của chúng
ta có tồn tại loại vật chất ấy; khi
người ta phẫn nộ, người ta đã
bắt đầu bị phẫn nộ khống chế;
phẫn nộ có thể chi phối người
ta giận dữ mà thực hiện những
việc hết sức không có lý trí; sau
sự việc người ta có thể vô cùng
hối hận; tuy nhiên lúc ấy người
ta không cảm thấy được sự
khống chế bản thân mình, kỳ
thực là “phẫn nộ” đang khống
chế rất chắc. Như vậy nếu
chúng ta muốn thoát ly khỏi sự
khống chế của phẫn nộ, thì phải
vứt bỏ những thứ ấy ở trong
tư tưởng; trong tư tưởng
không có phẫn nộ, hỏi cái sinh
mệnh bên ngoài kia làm thế nào
khống chế chúng ta được? Ví
như một chiếc xe toàn là sắt, thì
khi đi trong từ trường liền bị
hút; [nếu] chúng ta lấy hết sắt
trên xe vứt bỏ đi, thì không có
từ trường nào hút được nữa.
Mỗi một sinh mệnh khống chế
con người đều có đặc điểm của
bản thân; như “phẫn nộ” và
“cừu hận”; hai loại sinh mệnh
này có thể chi phối người ta
đánh người, giết người; người
ta muốn đánh người, thì phải
điều động cái hoả khí của mình
lên; [còn nếu] con người ở trạng
thái từ bi và hoà ái, thì chư vị có
muốn giơ tay đấm người ta
cũng không được, bởi vì sinh
mệnh từ thiên không có khái
niệm đánh người, nó sẽ không
đánh người. Tôi nhớ rằng trên
mạng Internet có một bài của
một học viên viết về một đệ tử
Đại Pháp cao tuổi rất từ thiện
khi đưa mắt nhìn một cảch sát
tàn ác, tên cảnh sát tàn ác này
đang định đánh người nhưng
đã không thể tự chủ được mà
phải buông tay. Chính là cái
trường từ thiện của đệ tử Đại
Pháp ấy đã hoá giải cái trường
tà ác của tên cảnh sát kia, cảnh
sát tàn ác kia không còn sự
khống chế của hung thần nữa
thì không thể đánh người được
nữa. Ví dụ ấy thuyết minh một
vấn đề, rằng những sinh mệnh
cấp thấp phải chịu sự ước chế
của sinh mệnh cấp cao, thậm chí
bị sinh mệnh cấp cao tiêu dung,
giải thể. Từ bi có thể hoá giải tất
cả, thậm chí phá trừ hết thảy
những chấp trước; bởi vì nó vi
quan hơn, lực lượng lớn hơn, nó
là thể hiện của đặc tính vũ trụ.
Đặc điểm của từ thiện là [biết]
nghĩ cho người khác, ai ở trong
cảnh giới ấy, thì thái đô phi
thường hoà ái thân thiện, ở đâu
cũng rộng lượng với người
khác, làm người ta lập tức thấy
cảm kích và ấm cúng trong lòng;
đó là đặc điểm của sinh mệnh từ
thiện. “Thân tình” thì không thế,
thân tình {tình cảm thân quyến}
cũng có nội dung biết nghĩ đến
người khác, tuy nhiên nó có
thành phần tư tâm {ích kỷ}; nó
có sự thân cận đối với người
bên mình, nhưng lại lãnh đạm
với người ngoài; do đó nó
không phải tốt đẹp lắm. Cảnh
giới của từ bi là vô tư rộng lớn,
nó có một lực lượng có thể làm
người ta quên đi cái ‘tôi’ để
dung nhập vào trong đó.
Khi người ta nói [hoặc] làm một
việc đều có một trạng thái
đương thời, cũng chính là xuất
phát điểm; người ta khi nói
hoặc làm một việc ở trong một
trạng thái nào đó, thì sẽ mang
theo tất cả đặc điểm của trường
(hoặc cảnh giới) của sinh mệnh
trạng thái ấy. Chẳng hạn khi một
người ở trạng thái từ bi mà
thuyết nói, thì người khác sẽ
cảm thấy rất ấm cúng, sẽ rất
muốn tiếp cận chư vị, muốn tiếp
thụ chư vị. Còn khi người ta
đang muốn thuyết phục người
khác mà thuyết nói, thì người
khác sẽ cảm thấy một thứ áp
lực, như có điều gì công kích,
người đó sẽ sinh ra tâm lý bảo
vệ bản thân mình. Khi người ta
đang khi tâm lý hiển thị dấy
động lên mà giảng nói, người
khác sẽ cảm thấy sự tự tư {ích
kỷ}, và họ thấy chán ghét; bởi vì
trường vật chất mà sinh mệnh
“hiển thị” mang theo là tự tư.
Bất kể người ta có nguỵ trang
thế nào, thì cái trường kia vẫn ở
đó, không che đậy được.
Cùng một lời nói, tại những
trạng thái khác nhau, cũng chính
là tại các trường cảnh giới khác
nhau, thì hàm nghĩa bên trong
nhất định cũng khác nhau, hiệu
quả cũng khác nhau. Lời nói
không phải ở chỗ hoa lệ bên
ngoài, mà là ở chỗ nội hàm của
nó, ở chỗ cảnh giới của người
nói ra nó. Cuốn Chuyển Pháp
Luân của Sư phụ, hoàn toàn
dùng phương thức văn nói mà
viết thành, nhưng lại biểu đạt
được những nội hàm không gì
sánh được của Đại Pháp vũ trụ.
Do vậy, chúng ta thấy có những
người giảng thuyết đại đạo
thao thao bất tuyệt nhưng
chúng ta không cảm thấy gì.
Nhưng chỉ một câu của một bạn
đồng tu tối thuần tịnh “hãy
nghe giảng” lại đả động đến nội
tâm thâm sâu của chúng ta. Có
những lúc tôi cố gắng tận lực
điều chỉnh trạng thái của bản
thân để nói hoặc viết bài, cố
gắng tận lực dùng từ bi và hoà
ái trong nội tâm bản thân mình
mà nói và viết, thậm chí dùng
bản nguyên vô tư của sinh
mệnh bản thân mình để làm
việc. Đương nhiên tôi chưa có
làm được như thế, nhưng tôi cố
gắng làm như thế.
Có những sinh mệnh khống chế
con người cũng có trường thời
gian của bản thân nó, con người
ta tại các trạng thái khác nhau
thì thời gian trôi đi nhanh chậm
có khác nhau. Khi người ta ở
trong trường của sinh mệnh
“nóng ruột” thì thời gian chạy
rất chậm, còn trong trường của
sinh mệnh “cao hứng” thì thời
gian trôi rất mau.
Những đạo lý giả hư dối của
nhân loại lúc đầu khai thuỷ
không có phạm vi thế lực mạnh
mẽ như vậy; nó cũng là phạm vi
của trường, nhưng bởi vì con
người dần dần nhìn nhận chúng,
nên vô hình trung đã gia tăng
mật độ và phạm vi của trường
vật chất này. Trong phạm vi thế
lực của những đạo lý giả, người
ta chiểu theo những lý ấy mà
hành sự; như thế là ở trong
phạm vi của trường ấy thì
chúng quyết định, nhưng đó là
những điều không đúng, chúng
sẽ an bài cho chư vị những giả
tượng, cứ tựa như là đó là
những điều chính xác tuyệt đối.
Thuận theo năng lượng của
những đạo lý giả ấy tăng mạnh
lên, chúng sẽ quay trở lại ức chế
những sinh mênh tin vào chúng,
đi theo quỹ đạo của chúng.
Những đạo lý giả ấy ngày nay
đang làm hại con người rất ghê
gớm, như “vô thần luận”,
“thuyết tiến hoá luận”, những
thứ như “bắp tay sao sánh
được bắp chân”, “người khôn
bảo vệ lấy thân” {minh triết bảo
thân}, “người tốt chẳng sống
lâu” {hảo nhân mệnh bất
trường}, “người thiện bị người
khinh, ngựa hay bị người
cưỡi” {nhân thiện bị nhân khinh,
mã thiện bị nhân kỵ}, v.v. Khi
chúng ta uốn nắn lại những
quan niệm bại hoại ấy của
người thường (thậm chí của
bản thân chúng ta), thì cũng là
chúng ta đang từng bước thanh
trừ những thứ ấy, nếu không,
cái trường vật chất do chúng
tạo thành sẽ là trở lực trong
Chính Pháp của chúng ta.
Từ một tầng nhất định mà
giảng, những ràng buộc của sinh
mệnh chính là những ràng buộc
tư duy; như vậy chúng ta nếu
như muốn thoát ly khỏi khống
chế của những sinh mệnh tầng
thấp, thì trước hết chúng ta
phải từ trong tư tưởng không
có tiến nhập vào đó nữa, bài trừ
những vật chất của sinh mệnh
tầng thấp đang lưu tồn trong tư
tưởng, đả phá những ràng buộc
của những quan niệm ấy, cho
đến khi trong tư tưởng không
còn những vật chất của những
khái niệm ấy. Thân thể là do các
tế bào tổ hợp thành, tư tưởng
của tế bào hầu như tương đồng
với tư tưởng của đại não. Khi tư
tưởng của các tế bào đột phá
qua được những ràng buộc ấy
rồi, thì thân thể chúng ta cũng
hoàn toàn đột phá ra được, và
chúng ta sẽ tiến nhập sang một
cảnh giới khác. Tất nhiên, từ
một cảnh giới cao hơn mà xét,
thì tư duy cũng giống như sinh
mệnh, cũng có tồn tại về
trường, cũng có những ước chế,
cũng có những giới hạn; làm
Thần mà xét, thì chúng ta cũng
phải đột phá khỏi khống chế của
tư duy.
[Chỉ khi] đệ tử Đại Pháp không
có ràng buộc của những vật
chất tầng thấp ấy, thì mới thật
sự giải phóng được, công năng
mới có thể tuỳ ý sử dụng. Trong
bài “Công năng là gì” Sư phụ nói:
“Nguyên nhân căn bản là từ
tầng vũ trụ cao nhất cho đến
tầng vũ trụ thấp nhất thì [khi]
một sinh mệnh và cảnh giới của
nó càng xuống dưới [thì] tỷ
trọng của hết thảy những vật
chất trong ấy lại càng lớn hơn,
các viên lạp tử lại càng lớn hơn,
phụ trọng {trọng lượng phụ}
của sinh mệnh càng lớn hơn;
càng xuống dưới [thì] bản năng
(công năng) của sinh mệnh càng
bị chính thân vật chất ức chế
ngày càng nặng hơn, càng
không thể khởi tác dụng; đó là
nguyên nhân tạo thành [tình
huống] tầng càng thấp năng lực
càng ít.” Sinh mệnh nào càng bài
trừ những thứ vật chất ấy càng
nhiều, thì cảnh giới lại càng cao,
công năng mới lại càng mạnh.
Nếu như khi phát chính niệm mà
chúng ta hoài nghi, e sợ, muốn
thử, hiển thị, hoan hỷ thái quá,
cừu hận, v.v. thì khi có những
phụ trọng vật chất tầng thấp
nặng nề ấy, hỏi niệm của chúng
ta có được lực lượng gì không?
Hễ sai một niệm, thì đất trời
khác biệt; chỉ khi chính niệm
thuần tịnh, thì mới có uy lực vô
tỷ mà thôi.
Khi một đệ tử Đại Pháp không
có những vật chất phát sinh ấy,
thoát ly khỏi thời gian, không
gian, v.v. cũng những khống chế
khái niệm thiên sai vạn biệt, thì
đó là cái gì? Đó chính là bản lai
sinh mệnh chúng ta, là không gì
ở ngoài, không đầu không cuối
{vô ngoại bất tại, vô hữu thuỷ
chung}, tạo thành hết thảy bản
lai thời không và vật chất, nó
chính là cái bản thân “tôi”;
chúng ta là bản lai của cảnh giới
ở tầng ấy của chúng ta, nó là
nước bất động {bất động đích
thuỷ}. Khi mà tâm của tôi động
chạm đến được cảnh giới ấy, tôi
cảm thấy được sự vĩ đại của
cảnh giới đó, tất cả đều nắm giữ
ở trong đó. Những thứ ràng
buộc và khống chế kia chỉ là
phát sinh của sinh mệnh bản lai
của chúng ta; chúng ta có thể
tái tạo, tu chính, thậm chí lệnh
cho chúng không tồn tại nữa.
Những thứ biến dị và nguyên lai
ấy đều ở trong thân của tôi, tôi
đầy khắp tất cả {di mạn nhất
thiết}, tất cả đều ở trong tôi;
trừ ma cũng là [bài] trừ những
thứ của tự thân. Trong cảnh giới
ấy, tất cả đều trở nên giản đơn
như vậy…
Đại Pháp tạo thành hết thảy bản
lai trong vũ trụ, chúng ta chỉ cần
đồng hoá với Đại Pháp, chúng ta
mới có thể tìm đến bản thân {tự
kỷ} của mình; chỉ những điều
Đại Pháp mang cấp đến mới là
tự tại như ý tách ly khỏi hết
thảy những ràng buộc vật chất.
Đây là những điều ngộ được
trong khi học Pháp, nêu ra để
tham khảo.